Hơn hai tuần nữa là đến 30 tháng 4, 50 năm không tiếng đạn bom, không phân chia ở vĩ tuyến 17, một mốc lịch sử vô cùng quan trọng đối với mỗi người Việt, dù đang ở đâu, trong tâm thế nào. Có lẽ vì vậy, Sài Gòn gần đây như hối hả trình làng một Sài Gòn, sau nửa thế kỷ, hiện đại và tiện nghi – những bến metro đầu tiên, sân bay quốc tế Long Thành, nhà ga nội địa mới, cầu đi bộ qua sông Sài Gòn, cả những cao tốc đang kéo gần các vùng miền lại với nhau…
Dù sao, Sài Gòn còn rất nhiều thứ phải làm, thời gian có chạy đi đâu đâu? Vẫn còn cho bao thế hệ sau. Riêng tôi, tôi tò mò xem thử bản thân, sau chừng ấy thời gian, điều gì còn lại trong tôi, điều gì đã cuốn theo dòng thời gian.

Năm tôi sinh ra là một năm đầy biến động ở Sài Gòn và cả những năm sau đó. Một đứa bé 5, 6 tuổi chỉ có thể nhớ những gì xung quanh nó – ngôi nhà trong con hẻm nhỏ nơi nó bước qua những năm tháng đầu đời, những người thân, người hàng xóm, lũ bạn ấu thơ rồi niên thiếu và cuối cùng đâu đó chút hình ảnh phố xá Sài Gòn. Ngày đó – giờ ra sao?
Trước 1970, ba mẹ có ngôi nhà ở Phan Đình Phùng, 441/32, ngôi nhà đầu tiên ba mẹ tôi mua sau khi vào Sài Gòn lập nghiệp từ đầu những năm 50. Tôi chào đời và đi những bước chân chập chững đầu tiên ở đây, dĩ nhiên, cái thời nằm nôi, bú bình, ngồi bô cho đến khi vô mẫu giáo – những hình ảnh đó sớm bị bóng thời gian che khuất hay tâm hồn non nớt của một đứa bé không đủ sức giữ nó vào lòng.

Năm tháng đi qua, biến động tan dần, vậy mà ngôi nhà xưa vẫn đấy, vẫn mặt tiền đó, cửa chính bên tay phải, cửa sổ bên trái và vẫn một lầu. Khi thấy những tấm hình ba mẹ cùng chúng tôi đứng chụp trước cửa nhà, tôi biết nhà đã qua vài lần “nâng cấp” cho đẹp hơn, hiện đại hơn, trừ bề ngang vẫn vậy – chưa tới 4m, thế mà mẹ tôi lại “phóng khoáng” đặt ngay một bàn bóng bàn chính giữa nhà cho bạn bè đến chơi.
Cạnh đó có chiếc tủ thật to – phần to nhất ở giữa có kính soi, để quần áo, hai tủ nhỏ hai bên bo tròn ôm sát tủ giữa, nơi để đồ đạc, nữ trang của mẹ tôi, sách vở của ba. Tủ to lắm, tôi hay vào tủ giữa, ngồi trốn ở đấy. Tủ nhìn nặng nề nhưng chịu khó theo chúng tôi về nhà mới, sống thêm một thời gian dài, qua biến cố 75, cho đến khi gục ngã bởi bọn mối và thời gian, còn bàn bóng bàn lưu lạc phương nào, không ai biết!

Nhà hẹp, chiếc cầu thang gỗ lại nằm ngang, nên rất dốc. Cái tật ngồi một chỗ không yên, ham leo lên leo xuống của tôi, thế là lúc 4 – 5 tuổi gì đó, tôi bước lên cạp quần và té, đầu đập xuống đất – nghe nói đầu tôi mềm luôn! Tôi được chở đến ông thầy Đông y nổi tiếng thời đó để… bó đầu! Đến giờ tôi vẫn mường tượng được mùi thuốc bắc, nó ám ảnh tôi thật lâu.
Sau này mọi người còn nói trong thời gian đầu chữa trị, ông thầy cho tôi đội nửa cái gáo dừa để bảo vệ đầu, thực hư sao tôi không biết, nhưng chắc là vậy! Xưa mỗi lần có dịp đi ngang tiệm ông thầy đó, mẹ tôi hay nhắc, hàm ý mang ơn. Tiếc là tôi không còn nhớ nằm trên đường nào, nhưng lại nhớ những bức tranh kính, đầy chữ Tàu trên đó.
Trên lầu phía sau có một không gian trống để divan, có mành sáo che nắng, nhìn ra mấy nóc nhà hàng xóm, tôi thường ngồi đó ngóng con mèo nhà hay đi hoang. Ngày dọn đi, tôi không thấy nó, sau này hàng xóm nói nó quay về, họ cho ăn nhưng sau không thấy nữa, con Mimi. Phía ban công trước nhà, khá thoáng, mẹ tôi thích nuôi chim chóc, có dạo Sài Gòn nổi lên vụ nuôi chim cút, bà cũng mua chuồng về nuôi, tôi háo hức lấy trứng nhưng không nhớ có được ăn trứng hay không, những quả trứng nhỏ xíu, lấm chấm đen.

Ngày ba mẹ không cho ra đường chơi, tôi hay bám lan can ban công nhìn xuống đường, xem lũ bạn chơi đùa. Bị nhốt thế mà hai anh em tôi vẫn dụ được (hay bị dụ) cậu bé bán kẹo kéo lấy vài cái bánh Tây từ hộp bánh rất đẹp của ai đó cho mẹ, để đổi kẹo. Lúc nhìn theo bác hớt tóc dạo quen thuộc của xóm, dáng bác dong dỏng trong bộ bà ba trắng, tóc hoa râm, khi trời nắng bác đội chiếc nón phớt màu sáng, tay cầm hộp đồ nghề đi ngang xóm, hay có lúc dõi mắt theo chị bán chuối xào dừa, trên đầu quấn khăn có cái thau nhỏ, đầy lá chuối xanh.
Qua bao nhiêu năm, xóm xưa giờ thay đổi nhiều. Không còn ngôi nhà gỗ đẹp nhất xóm với cây mận của bà Tư khó tính, niềm vui của tụi con nít chúng tôi khi trưa trưa lén lại chọc mận, đến khi bà ra la. Không còn ngôi nhà khang trang của bác Thanh Phong, mẹ của Né, đứa bạn thân nhất thời ấu thơ, cứ đến giờ đi ngang nhà tôi là réo to “Nguyên ơi, đi học với Né!”. Vậy mà sau này, bất ngờ chạm mặt ở chỗ luyện thi lên lớp 10, hai đứa nhìn nhau ngờ ngợ mà không ai lên tiếng, đến tận bây giờ.

Không còn ngôi biệt thự với hàng cây kiểng trước sân của thằng Đức cùng tuổi nhưng tính kiêu kiêu, không còn cậu bé Giàu to xác nhưng tâm hồn ngây ngô như trẻ thơ, hay theo mẹ tôi bập bẹ học đếm. Không còn ngôi nhà cao to nhất xóm, nơi từng là trại sĩ quan Đại Hàn, lò dạy Taekwondo cho bọn con nít Việt, trong đó có anh tôi.
Duy nhất một căn nhà rất nhỏ nhưng ngự ở vị trí “vàng”, ngay mặt tiền đường, vẫn y như xưa – tiệm giò chả nổi tiếng một thời, hình ảnh bà chủ người gốc Bắc, nhỏ con, đầu vấn khăn, hàm răng đen bóng, lúc nào cũng tươi cười với mẹ tôi, lại khắc sâu trong tâm trí tôi.

Ngôi trường mẫu giáo của tôi vẫn còn đó, xưa gọi Aurore, Rạng Đông giờ đã có tên mới. Nhớ trường, nhớ cô giáo Dung, mẹ tôi cũng dạy ở đây, nhớ bà hiệu trưởng mà mẹ tôi gọi chị Chi, một người Việt mang dòng máu lai Pháp. Đến giờ, sau bao nhiêu năm, tôi vẫn nhớ hình ảnh cô Chi, ấn tượng với giọng nhỏ nhẹ, tí âm Bắc, tí âm Tây giọng mũi.
Giờ hiếm ai biết, ngày đó sau ngôi trường Aurore có một khu vườn đẹp cùng với ngôi biệt thự màu kem theo kiến trúc Địa Trung Hải, nhà lúc nào cũng tràn ngập ánh sáng, không gian rộng mở, với terrace nhìn ra vườn… cơ ngơi của cô Chi. Mẹ tôi cùng vài đồng nghiệp thỉnh thoảng được cô mời đến chơi vào cuối tuần và tôi – một thành viên không thể thiếu (chỉ vì ở nhà không ai trông tôi!)
To be continued